|
|
Có thể kinh ngạch
xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo…) nhưng xét
đến những tác động tích cực của nó về mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực
hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời
gian tới. Trên thực tế chè vẫn là một trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực về
nông sản ở Việt Nam.
Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho
thu hoạch nhiều năm. Tuổi thọ của chè kéo dài 50 - 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc
tốt có thể tới hàng trăm năm. Một ha chè thu được 5 - 6 tấn chè búp tươi (nhiều
năm nay có giá tương đương thóc), có giá trị ngang với một ha lúa ở đồng bằng
và gấp 3 - 4 lần một ha lúa nương. Vì vậy có thể nói cây chè là cây “xoá đói giảm
nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần
phát triển kinh tế miền núi, bảo vệ an ninh biên giới.
Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi
chế biến được hơn 2 tấn chè khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ
tương đương với khi xuất khẩu 200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học.
Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động
khá lớn. Lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến cây chè của cả
nước lên đến 3 triệu người. Bên cạnh đó, lao động vốn là lợi thế so sánh của nước
ta, đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm lâu đời trong trồng về chế
biến chè.
Tuy nhiên trong vai trò là một mặt hàng xuất khẩu
chủ lực, chè Việt Nam cũng không tránh khỏi điều mà các chuyên gia mô tả là một
thứ “bi kịch”. Theo đó chúng ta đang làm ăn chủ yếu tại các thị trường nghèo, dễ
tính, trong khi không thể thâm nhập các thị trường khó tính hơn. Theo số liệu
thống kê, cho đến thời điểm này, chè Việt Nam có mặt tại 118 quốc gia, vùng
lãnh thổ. Tuy được biết nhiều như vậy nhưng chề Việt Nam vẫn chỉ ở vai “kép” phụ.
Hiện, 34/63 tỉnh, TP cả nước có sản xuất chè, nhưng
chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, phân tán, không đồng nhất và không thể kiểm soát
được chất lượng. Vì vậy, việc thâm nhập các thị trường cao cấp dường như là bất
khả thi với đa số các DN Việt Nam do rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm. Một
số quốc gia châu Âu và Hoa Kỳ… được tính đến trong danh mục các thị trường nhập
khẩu chè Việt Nam nhưng số lượng rất nhỏ. Chủ yếu do các DN nước ngoài tự đầu
tư trồng chè tại Việt Nam, tự kiểm soát chất lượng và sau đó chuyển về nước dưới
dạng nguyên liệu để tiếp tục chế biến ra thành phẩm giá cao gấp 4 - 5 lần.
Hay nói một cách khác đi 80% giá trị gia tăng là nằm
ngoài cây chè và người làm chè chỉ hưởng nhiều nhất là 20%. Đó là một điều cực
kỳ vô lý thế nhưng chúng ta vẫn phải sống chung với nó từ nhiều năm nay. Việc
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu phải bắt đầu ngay từ ngành chế biến chè để
có cơ hội thành hiện thực chứ không phải mãi chịu cảnh “ngủ yên”
Nguồn: thainguyen.gov.vn
Tác giả: Hà Trang |
Danh Mục Bài Viết
Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013
Công nghiệp chế biến chè: Từ xóa đói giảm nghèo đến tham gia chuỗi giá trị gia tăng
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
chè thái nguyên
Trả lờiXóalà một trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực về nông sản ở Việt Nam. Có thể nói che thai nguyen
là cây “xoá đói giảm nghèo, điều hoà lao động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển nong nghiep
, kinh tế miền núi, bảo vệ an ninh biên giới.